"Sự cố", nguyên là từ Hán Việt chỉ một việc vừa xảy ra (Chữ Sự thuộc
bộ Quyết, chữ Cố thuộc bộ Phác) nhưng hầu như được hiểu là điều bất
thường và không hay xảy ra trong một quá trình hoạt động nào đó: Máy có
sự cố, có sự cố trên đường đi... (Đại Từ điển tiếng Việt, trang 1408).
Ít người thuộc phía miền Nam VNCH biết đến danh từ này ngoại trừ những
ai đã từng có thời gian làm việc, sống gần với phe Việt Cộng như trong
các phiên họp, tù giam ở các nhà lao, nhà máy, khu vực doanh trại bộ
đội...
Bài viết này, tác giả viết về các "sự cố" xảy ra ở những buổi trao
trả tù binh cho phe Việt Cộng trong thời kỳ thi hành Hiệp Định Ba Lê
1973.
Trước tiên, tác giả xin giải thích chữ Việt Cộng dùng trong bài
viết là để chỉ chung Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng miền Nam (tức Mặt
Trận Giải Phóng và sau này họ cải danh là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời
Cộng Hòa miền Nam Việt Nam (sau ngày 6-6-1969) nhưng ai cũng biết cả hai
phe họ đều là một và đều do chính quyền Hà Nội chỉ huy).
Ngoại trừ phần lớn tù binh quân nhân Hoa Kỳ (hầu hết là phi công)
được phe Việt Cộng trao trả tại sân bay Gia Lâm ở Hà Nội (giam tập trung
ở nhà lao Hỏa Lò sau vụ tập kích Sơn Tây ngày 20-11-1970) thì chỉ có
một số rất ít tù binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh như Úc, Tân Tây
Lan... được trao trả tự do tại Lộc Ninh.
Về tù binh các bên người Việt
thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH và Việt Cộng được Ủy Hội Quốc Tế
Kiểm Soát và Giám Sát (việc thi hành Hiệp Định Ba Lê) ấn định sẽ được
trao trả tại các địa điểm như bờ sông Thạch Hãn (tỉnh Quảng Trị), Đức
Phổ (tỉnh Quảng Ngãi), Bồng Sơn (tỉnh Bình Định), Lộc Ninh, Minh Hòa
(tỉnh Bình Long), Bình Thủy (tỉnh Cần Thơ)...
Bạn tù Việt Cộng đả thương Nguyễn Văn Chẳng trước sự chứng kiến của các đại diện ICCS và UBLHQS. |
Tù binh Việt Cộng thứ hai được đại diện ICCS hộ tống đến máy bay C 130 để về lại phi trường Biên Hòa. |
Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát có tên là International
Commission of Control and Supervision (gọi tắt là ICCS) đã ấn định 4 đợt
trao trả chính như sau:
Đợt 1 khởi sự từ 12 tháng 2 đến 26 tháng 2 năm 1973 và phía miền Nam
VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7000 (bẩy ngàn) tù binh (bao gồm cán
binh trong các lực lượng võ trang cùng tù chính trị) để nhận lại 1032
(một không ba hai) người (thuộc quân nhân, công chức, cán bộ) và 163 tù
binh quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh.
Đợt 2 khởi sự từ ngày 8 cho đến ngày 13 tháng 3, phía chính quyền
miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng là 5.596 (năm ngàn năm chín
sáu) người để nhận lại 1.004 (một ngàn lẻ bốn) người cùng 142 quân nhân
Hoa Kỳ và đồng minh.
Đợt 3 khởi sự từ ngày 14 cho đến ngày 19 tháng 3, phía chính quyền
miền Nam VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 7.294 (bẩy ngàn hai chín tư)
người để nhận lại 1.214 (một ngàn hai một bốn) người cùng 140 quân nhân
Hoa Kỳ và đồng minh.
Đợt 4 khởi sự từ 23 đến tháng 4 năm 1973, phía chính quyền miền Nam
VNCH trao trả cho phe Việt Cộng 6.619 (sáu ngàn sáu một chín) người để
nhận lại 2.178 (hai ngàn một bẩy tám) người cùng 149 quân nhân Hoa Kỳ và
đồng minh.
Mỗi ngày trao trả thường có từ 8 đến 10 chuyến máy bay vận tải C 130
của phía chính quyền miền Nam VNCH chở tù binh phe Việt Cộng đến tại nơi
trao trả. Tù binh thuộc Cộng Sản Bắc Việt (các lực lượng chánh qui xâm
nhập) được trao trả tại Quảng Trị (bờ sông Thạch Hãn) và tù binh thuộc
Việt Cộng miền Nam (gồm tù chính trị, các lực lượng võ trang địa
phương...) được trao trả tại nhiều địa điểm ở miền Nam.
Các đại diện của UBLHQS tại một buổi công tác. |
Ngoài ra, còn có các vụ trao trả lẻ tẻ không đúng theo kế hoạch mà
ICCS đã dự trù. Nơi trao trả tù binh người Việt đầu tiên là tại Lộc Ninh
thuộc tỉnh Bình Long.
Ta biết Lộc Ninh (cấp quận) nguyên là một vùng
dân cư hẻo lánh nằm cạnh thung lũng sông Rừng Cấm của tỉnh Bình Long,
khi trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) xẩy ra thì Lộc Ninh lọt vào tay Việt
Cộng (vào ngày 7 tháng 4) và kể từ đây, Lộc Ninh trở thành thủ đô của
cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Ở
Lộc Ninh có một phi trường nhỏ nằm giữa rừng cao su, cách quốc lộ 13
khoảng 1 km (thuộc quyền kiểm soát của trung đoàn 9 Bộ Binh miền Nam
VNCH trước đó) và đã trở thành nơi để trao trả tù binh.
Các sự cố đã xẩy ra trong các buổi trao trả mà đều do tù binh phe
Việt Cộng gây ra. Trong ngày cuối của đợt 2, một tù binh Việt Cộng tên
Nguyễn Văn Chẳng (nguyên là quân nhân thuộc Công Trường 9) trong lúc chờ
làm các thủ tục thì đột nhiên, anh ta xin được quay về trại tù (Phú
Quốc) thay vì sẽ đi sang phần đất thuộc phe Việt Cộng (các lều dã chiến
gần đó) để nhận tư trang mới.
Sự chọn lựa của tù binh Nguyễn Văn Chẳng
là một bất ngờ, làm bối rối tất cả những nhân viên có nhiệm vụ tiến hành
việc trao trả-nhận lãnh người đang có mặt tại chỗ (bao gồm đại diện
ICCS, phía miền Nam VNCH cùng phe Việt Cộng).
Khi được thông báo tin có
tù binh xin ở lại (không về với rừng sâu âm u cùng các đồng đội-đồng chí
nữa) thì khá đông các tù binh Việt Cộng khác (từ các lều bên phe Việt
Cộng) liền xông đến và đả thương anh Nguyễn Văn Chẳng liền.
Các đại diện
của ICCS cùng nhân viên phía miền Nam VNCH liền nhẩy vào can thiệp, đám
tù binh gây rối bị giải tán và bị buộc phải quay trở về chỗ cũ (các lều
dã chiến). Nguyễn Văn Chẳng được các đại diện của ICCS đưa gặp các nhân
viên phía chính quyền miền Nam VNCH để làm các thủ tục mới về trường
hợp của cá nhân anh (chuyển sang quy chế chiêu hồi) nhưng thật không
ngờ, anh ta lại đổi ý lần nữa và xin được trao trả về với đồng đội của
mình.
ICCS đành tiến hành tiếp các thủ tục bàn giao anh ta cho phe Việt
Cộng. Việc anh Nguyễn Văn Chẳng vừa xong thì chỉ chốc lát sau, có một tù
binh thứ hai (không rõ tên) xin được ở lại phía chính quyền miền Nam
VNCH.
Khi được thông báo, các đại diện của ICCS đã vội cách ly anh nầy
đến một chỗ khá xa các lều dã chiến của phe Việt Cộng (có lẽ họ rút kinh
nghiệm từ chuyện đả thương vừa rồi). Khi các thủ tục cho việc xin ở lại
này đã xong, đại diện của ICCS đã hộ tống người thứ hai này ra đến tận
máy bay trong chuyến quay về lại phi trường Biên Hòa.
ICCS là tên gọi tắt của International Commission of Control and
Supervision mà được dịch là Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát và Giám Sát (việc
thì hành Hiệp Định Ba Lê 1973) nguyên khởi đầu có 4 quốc gia thành viên
là Indonesia, Canada, Ba Lan và Hung Gia Lợi.
Cuối tháng 7-1973 thì
Canada từ bỏ nhiệm vụ và ra khỏi tổ chức ICCS (lý do là một thành viên
người Canada bị phe Việt Cộng bắt giam và hăm dọa vô lý do) để liền sau
đó, ghế trống này được thế bằng quốc gia Iran (tháng 1-1974) cho đến khi
tàn cuộc chiến.
Trong cuộc chiến tại Ban Mê Thuột (bắt đầu từ ngày
10-3-1975) phe Việt Cộng còn công khai bắt giữ 2 đại diện ICCS của
Indonesia và Iran (cấp đại úy) và chỉ trao trả họ về nước sau khi đã
chiếm được toàn miền Nam VNCH. Những phương tiện đi lại của ICCS (máy
bay, xe cộ, tàu thuyền...) đều được sơn 4 vạch mầu da cam để tránh ngộ
nhận có thể bị tác xạ. Thực tế đã có các vụ tác xạ vào phi cơ trực thăng
UH (do phe Việt Cộng gây ra) nhưng được bào chữa là do phi công bay lạc
nên phía Việt Cộng hiểu lầm là phía miền Nam VNCH cố tình sơn 4 vạch để
bay đánh phá vùng cách mạng. ICCS không hoạt động từ đầu năm 1975 (vì
sự vi phạm trắng trợn của phe Việt Cộng khi công khai tiến chiếm tỉnh
Phước Long trong ngày 6-1-1975) cho đến khi tự động chấm dứt nhiệm vụ
trong ngày 30-4-1975.
Mỗi buổi trao trả đều có mặt đại diện của ICCS và 4 bên gồm Mỹ, miền
Nam VNCH, Việt Cộng miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt (gọi là Ủy Ban Liên
Hợp Quân Sự (UBLHQS)có trụ sở chính là trại Davis nằm trong phi trường
Tân Sơn Nhứt)
210 tù binh Việt Cộng xin được ở lại miền Nam VNCH thay vì về với đồng chí và rừng núi âm u. |
Ngày 25-3 (cuối đợt 4) tại phi trường Biên Hòa, trong khi chờ đợi
được trao trả cho phe Việt Cộng, 210 (hai trăm mười) tù binh xin được ở
lại phần đất của chính quyền miền Nam VNCH thay vì về với phe Việt Cộng
.
Con số người hồi chánh quá đông đã gây bối rối cho tất cả các thành
viên của ICCS cùng UBLHQS nên sự quyết định không được thống nhất. Số tù
binh này liền tỏ ý quyết liệt, sẽ tự sát tại chỗ nếu như họ bị buộc
phải trả về cho phe Việt Cộng. Cuối cùng ý nguyện của họ được chấp
thuận.
Tại sao lại có một con số quá đông tù binh xin chọn được hồi chánh
khi mà cảnh xum họp với đồng đội mình chỉ sẽ diễn ra trong khoảng khắc?
Câu trả lời sẽ không lạ khi ta quay trở về đợt trao trả đầu tiên tại phi
trường Lộc Ninh.
Buổi xế trưa ngày 22-2-1973, vừa được trao trả xong
thì một nữ tù binh (trong số 904 phụ nữ) tên Bùi (người gốc Bình Định)
đã bị bạn đồng tù giết chết trước sự chứng kiến của các nhân viên ICCS
cùng UBLHQS.
Lý do của việc thủ ác này được các tay thủ ác giải thích vì
nữ tù tên Bùi đã phản bội lý tưởng Cách Mạng, là nhân viên của Thiên
Nga, làm tay sai cho giặc (phía miền Nam VNCH) khi còn ở trại giam Quy
Nhơn, Cần Thơ.
Thấy có người bị giết chết, các đại diện của ICCS đòi lập
biên bản, phía chính quyền miền Nam VNCH đòi phe Việt Cộng phải trao
trả lại các hung thủ để họ sẽ truy tố. Đại diện của phe Việt Cộng (trong
UBLHQS) từ chối với lý do người của họ phải để cho họ giải quyết và họ
đã hứa sẽ thi hành (có hay không thì không ai biết) khi về tới căn cứ
(sâu tuốt trong rừng).
Sau cùng, sự việc đành phải để êm xuôi vì trong
Hiệp Định Ba Lê không có chi tiết về giải quyết các hành vi bạo động
trong việc trao trả tù binh (Điều 8, Chương III).
Một sĩ quan thuộc binh
chủng Quân Cảnh miền Nam VNCH (tên Đoàn C Hậu) đã kể lại những nữ tù
binh tham dự việc thủ ác như sau: " Từ lúc còn ở sân trại giam Cần Thơ
cho đến khi chờ lên máy bay C 130 để đến đây (Lộc Ninh), cái đám giặc
cái này lúc nào cũng lấy khăn che kín mặt như sợ ai nhìn thấy, biết tụi
nó là Việt Cộng... Đâu ngờ đến đây lại giở trò ".
Nữ tù binh Việt Cộng lấy khăn che kín mặt tại sân trại giam Cần Thơ. |
210 tù binh phe Việt Cộng xin được ở lại miền Nam VNCH vì họ sợ hình
ảnh thảm sát bởi đồng đội một khi đã bước chân hẳn vào rừng sâu âm u,
không còn ICCS hoặc UBLHQS để có thể can thiệp.
Những vụ tù binh bị bạn
đồng tù giết chết trong các trại giam (Phú Quốc, Côn Đảo...) không xa lạ
với các tù binh Việt Cộng. Nhẹ thì bị vây đánh tập thể, xô té xuống
giếng nước (khi tắm rửa-giặt giũ)... Nặng thì bị móc bóng đèn (1 hoặc 2
mắt), lấy ráy tai (cây sắt đâm xuyên qua 2 tai)... và có thể tin tức về
vụ giết người tại phi trường Lộc Ninh (trong buổi trao trả ngày
22-2-1973 kể trên) đã được các quân nhân Quân Cảnh miền Nam VNCH kể lại
cho các tù binh nghe. Địa ngục trần gian mà phe Việt Cộng thường kể về
các trại tù binh của chính quyền miền Nam VNCH (tại Phú Quốc, Côn
Đảo...) chính là vì có những quỷ sứ (cái gọi là chi bộ Đảng CS trong nhà
tù) sống lẫn lộn trong các phòng giam chứ không là ai khác.
Trong các buổi trao trả, tổng cộng có tất cả là 240 tù binh phe Việt
Cộng xin được ở lại phần đất thuộc phía chính quyền miền Nam VNCH
(chuyển sang quy chế chiêu hồi) và không hề có một tù binh phía miền Nam
VNCH nào xin được ở lại với phe Việt Cộng.
Có khi vì sốt sắng muốn bắt liên lạc với giới lãnh đạo Mặt Trận Giải
Phóng miền Nam, tháng 2-1967, chính phủ Hoa Kỳ khẩn khoản với chính
quyền miền Nam VNCH trả tự do vợ của 2 nhân vật quan trọng (của phe Việt
Cộng miền Nam) là bà Phạm Thị Yến (vợ của Trần Bửu Kiếm) và sau đó vào
tháng 12-1967 lại giao thêm bà Mai Thị Vàng (vợ của Trần Bạch Đằng) như
một cử chỉ muốn thương thảo dù khi đó phía quân đội Hoa Kỳ và chính
quyền miền Nam VNCH đang ở thế thượng phong tại các chiến trường. Kết
quả là trận Tết Mậu Thân 1968 cho thấy thái độ Cộng sản Bắc Việt và Việt
Cộng miền Nam có muốn thương lượng tìm giải pháp hòa bình hay không.
Đặc biệt có một tù binh phe Việt Cộng (thuộc thành phần chính trị)
được phía chính quyền miền Nam VNCH trao trả nhưng phe Việt Cộng cương
quyết không tiếp nhận dù biết rõ nhân thân tù binh này là đảng viên Cộng
Sản (được kết nạp vào đảng ngày 3-2-1966), có bí danh L.71 khi y hoạt
động trong nội đô Sài Gòn. Tù binh đó là Huỳnh Tấn Mẫm, người có thời là
quyền Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn (1969). Huỳnh Tấn Mẫm sinh
năm 1943 tại Gia Định (ngoại ô Sài Gòn), sinh viên Đại học Y Khoa
(1963)... Phe Việt Cộng giao cho Mẫm nhiệm vụ bằng mọi cách y phải nắm
được những vị trí hợp pháp, công khai trong tập thể sinh viên để dấy lên
mạnh mẽ phong trào sinh viên-học sinh đấu tranh ngay tại thủ đô Sài Gòn
và y đã thi hành các việc phá rối-trị an như: Đốt xe Mỹ, Hát cho đồng
bào tôi nghe (kêu gọi phản chiến có một phía), Chống Quân Sự Học
Đường...
Sau 2 vụ Biệt Động Thành Việt Cộng (T4) ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh
Nhật (ngày 28-6-1971) và giáo sư Nguyễn Văn Bông (ngày 10-11-1971) thì
Huỳnh Tấn Mẫm bị bắt giam (ngày 5-1-1972) cho đến 20-2-1974 thì phía
chính quyền miền Nam VNCH trao trả y tại Lộc Ninh (chung với gián điệp
Huỳnh Văn Trọng, luật sư Nguyễn Long, sinh viên Cao Thị Quế Hương...)
nhưng phe Việt Cộng đã từ chối. Phía chính quyền miền Nam VNCH đành phải
đưa Mẫm trở về, nhưng biết chắc nếu thả ra, y ta sẽ lại lãnh đạo một số
sinh viên-học sinh ở thủ đô Sài Gòn và lợi dụng luật pháp để tiếp tục
phá rối trị an xã hội. Chính quyền miền Nam VNCH đã giam y tại nhà lao
Chí Hòa rồi chuyển sang giam tại Tổng Nha Cảnh Sát. Hai tháng sau, ngày
21-4-1974, Mẫm được chuyển ra trại chiêu hồi tại eo biển Lagi-Hàm Tân
cho đến tháng 4-1975 thì nhân viên coi trại chuyển Mẫm về giam tại Sài
Gòn (bót cảnh sát gần Thảo Cầm Viên). Ngày 29-4-1975, Mẫm được trả tự do
và ngay sau đó (buổi tối) y lên tiếng trên hệ thống truyền thanh (Radio
và Truyền hình), ngỏ lời cám ơn những người đã ủng hộ y và y yêu cầu
chính quyền miền Nam VNCH thả hết tù chính trị, kêu gọi đồng bào hãy ở
lại, đừng di tản ra nước ngoài.
Tại sao phe Việt Cộng lại cố tình không tiếp nhận tù binh Huỳnh Tấn
Mẫm (nêu lý do Mẫm là sinh viên, không phải là tù binh (trong các lực
lượng võ trang) và yêu cầu chính quyền miền Nam VNCH trả Mẫm về với gia
đình). Có người cho là phe Việt Cộng làm vậy vì họ còn muốn lợi dụng Mẫm
(ở thế hợp pháp sống trong lòng nội đô Sài Gòn) nhưng làm vậy, họ đã
đẩy Mẫm phải tiếp tục cảnh tù đầy (bởi các quyết định của đồng chí
mình).
Phe Việt Cộng đối xử với Mẫm như vậy vì có thể thấy nếu tiếp nhận
y vào mật khu thì khi có dịp tiếp xúc với các người trẻ khác (thanh
niên dễ hòa đồng với nhau), có thể sẽ y gieo vào đầu óc họ các ý tưởng
đấu tranh-biểu tình (như khi y còn hoạt động ở nội đô Sài Gòn). Và, nếu
sự việc có vậy thì họ sẽ giải quyết trường hợp y ra sao?
Làm giống như
chính quyền Hà Nội đã làm (bắt tập trung cải tạo) với những công nhân
(hồi hương từ nước Pháp về miền Bắc Việt Nam ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến)
đã lãn công, biểu tình (trước nhà máy) khi thấy công đoàn (đoàn viên
đoàn Thanh Niên Lao Động) chà đạp quyền lợi của một số công nhân trong
phân xưởng làm việc. Tốt hơn hết để cho chính quyền miền Nam VNCH tiếp
tục giam cầm Mẫm trong bối rối (tìm cách giải quyết).
Nhìn các con số tù binh được trao trả trên đây, ai cũng thấy phía
chính quyền miền Nam VNCH trả tự do nhiều người hơn bên phe Việt Cộng.
Có buổi trao trả, phía chính quyền miền Nam VNCH trao cho phe Việt Cộng
1200 (một ngàn hai trăm) tù binh để nhận lại chỉ vỏn vẹn có 3 người tù
mà họ phải nằm trên cáng như ở buổi trao trả ngày 21-3-1973 tại bờ sông
Thạch Hãn.
Phe Việt Cộng thường rêu rao phía chính quyền miền Nam VNCH thường cố
tình ém nhẹm con số tù binh và họ phải làm dữ (tiếp tục đấu tranh) thì
phía chính quyền miền Nam VNCH mới trao trả 3.506 (ba ngàn năm không
sáu) tù binh cho đợt cuối cùng (từ ngày 8-2 đến ngày 7-3-1974).
Trong
các phiên họp của UBLHQS tại trại Davis, phe Việt Cộng vẫn lải nhải nói
là không còn giam giữ bất kỳ một tù binh thuộc phía chính quyền miền Nam
VNCH và giải thích tù binh phía chính quyền miền Nam VNCH bị bắt trong
chiến dịch Lam Sơn 719 là do Pathet Lào cầm giữ (trường hợp điển hình là
đại tá Nguyễn Văn Thọ (Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù) cũng như họ chối nói không
biết về các tù binh biệt kích (chương trình OPLAN-34) của miền Nam VNCH
bị bắt trên vĩ tuyến 17. Sau ngày 30-4-1975, những tù binh này tiếp tục ở
tù thêm nhiều năm thì mới được thả. Về các tù binh Hoa Kỳ, phe Việt
Cộng vẫn chối, nói không còn giam giữ bất kỳ người nào khi chiến tranh
chấm dứt (quân nhân Mỹ cuối cùng rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhứt vào
ngày 29-3-1973) nhưng vào mùa Hè năm 1976, sau khi có sự tiếp xúc giữa
nhân viên sứ quán Việt Cộng tại Paris-Pháp Quốc và một cựu nhân viên CIA
(Frank Snepp) thì chính quyền Hà Nội đã trao cho chính quyền Hoa Kỳ
danh sách mới của 12 quân nhân Mỹ mất tích. Những nguồn tin từ các người
tù thuộc chính quyền miền Nam VNCH (thời gian bị tập trung tù cải tạo
sau ngày 30-4-1975) cho biết, họ đã từng thấy (tận mặt) các tù binh Hoa
Kỳ còn sống tại các trại giam đèo heo hút gió ở miền Bắc VN.
Phía chính quyền miền Nam VNCH đã không thể trao trả cho phe Việt
Cộng một tù binh nổi tiếng khác vì lý do người này khăng khăng không
nhận cấp bậc và chức vụ thật của y. Đó là Nguyễn Tài (hay Nguyễn Công
Tài, con ruột nhà văn Nguyễn Công Hoan), mang cấp bậc là đại tá và là
Thứ trưởng Bộ Công An của Cộng Sản Bắc Việt.
Nguyễn Tài bị cảnh sát quốc
gia bắt được khi hoạt động gián điệp tại nội đô Sài Gòn nhưng dù đã
thấy các bằng chứng về mình (do cảnh sát miền Nam VNCH chưng ra), y vẫn
chối, nói một cái tên khác và khai cấp bậc y chỉ là Đại úy. Chính vậy mà
phía chính quyền miền Nam VNCH không thể trao trả y cho phe Việt Cộng
trong các buổi trao trả tù binh được.
Ngày 30-4-1975 Nguyễn Tài được một
nhân viên cảnh sát quốc gia giải thoát khỏi nhà lao Chí Hòa nhưng khi
về với phe mình thì y đã bị cấp trên nghi ngờ về lòng trung thành của
bản thân. Y như trường hợp của các cựu tù binh Việt Cộng khác sau khi
được tha, họ phải tập trung tại các trại ở Sầm Sơn-Thanh Hóa và phải
buộc làm kiểm điểm nhiều lần y như đang bị ở tù lần nữa.
Lãnh đạo phe
Việt Cộng có cái suy nghĩ quái gở là khi nhận lãnh tù binh bên phe mình
về thì một mặt gọi họ là anh hùng, kẻ chiến thắng... Nhưng một mặt thì
lại nghi ngờ về sự trung thành của họ, thậm chí muốn họ khi bị sa vào
tay chính quyền miền Nam VNCH (tại mặt trận hay trên đường hoạt động)
thì họ nên chết đi còn hay hơn là ở tù (trong tay đối phương) và để cấp
trên phải đi lãnh về.
Ngày nào đó, nếu có một tù binh Hoa Kỳ còn sống mà vượt thoát được
đến nơi tự do, thì đây sẽ là một sự cố lớn trong các sự cố về việc trao
trả tù binh của các bên tham chiến trong thời chiến tranh tại Việt Nam.
Phạm Thắng VũSep 15, 2012.
No comments:
Post a Comment